Showing posts with label Người nổi tiếng. Show all posts
Showing posts with label Người nổi tiếng. Show all posts

28.3.18

David Abney: Đi lên từ cấp thấp nhất

Sam Walton -ong vua ban le o My


Năm 2001, Kmart với hệ thống hàng chục nghìn cửa hàng bán lẻ đã tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-Mart trụ lại. Sở dĩ Wal-Mart có được sự phát triển như ngày hôm nay là nhờ tập đoàn này được chèo chống bởi một nhà kinh doanh tài ba - Sam Walton.

Năm 1962, Sam Walton chỉ là một công nhân làm thuê cho một tiệm giặt là tại thị trấn Bentonville bang Arkansas nước Mỹ. Hằng ngày, người thanh niên 28 tuổi này có nhiệm vụ cùng 3 nhân viên khác đem những món đồ đã được là ủi sạch sẽ trao tận tay cho khách hàng.

Khi đó thống trị hệ thống cửa hàng bán lẻ tại Arkansas và các bang lân cận là hai tập đoàn bán lẻ khổng lồ Kmart và Sears. Sau nhiều lần đi giao hàng, trực tiếp "va chạm" với đủ các loại khách hàng, Sam Walton đã phát hiện Kmart và Sears không hề xuất hiện ở các thị trấn nhỏ bé hẻo lánh như thị trấn Benton quê mình.

Với phản xạ kinh doanh nhạy bén, Sam Walton lập tức dốc toàn bộ số tiền 150 đôla thuê 8 công nhân và thành lập một cửa hàng bán lẻ lấy tên là Wal-Mart ngay tại thị trấn Bentonville quê ông.

Thời gian đầu tiên do vốn liếng ít ỏi, kinh nghiệm thiếu, cửa hàng của Sam chủ yếu kinh doanh buôn sỉ bán lẻ theo phương châm lấy công làm lãi, buôn bán những nhu yếu phẩm cần thiết nhất. Sam Walton đã thu hút số lượng lớn khách hàng trong thị trấn bằng tác phong phục vụ nhiệt tình chu đáo, chất lượng hàng bảo đảm, giá cả phải chăng. Cho tới năm 1965, Wal-Mart đã trở thành một trong những cửa hàng bán lẻ thu hút nhiều khách hàng tại thị trấn Benton.

Mặc dù có bước khởi đầu khá thuận lợi nhưng là con người xuất thân từ nông thôn, Walton rất tiết kiệm trong chi phí. Thậm chí khi trở thành một trong số những người giầu nhất nước Mỹ, Sam vẫn là một con người bình dị và khiêm tốn.

Dưới tài lãnh đạo của Sam Walton, Wal-Mart đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành đối thủ cạnh tranh ngang ngửa với đối thủ Kmart vào đầu thập niên 1970. Hiện nay, hệ thống cửa hàng siêu thị bán lẻ thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Wal-Mart đã lên tới hàng chục nghìn chiếc nằm rải rác khắp Bắc Mỹ, châu Âu và tích cực vươn sang châu Á. Quy mô khổng lồ hiện nay của Wal-Mart đã được giới kinh doanh Mỹ thừa nhận. Theo thống kê của Hiệp hội thương mại Mỹ, doanh số bán hàng của Wal-Mart đạt 216 tỷ đôla một năm, vượt qua doanh số bán hàng của hãng điện tử gia dụng nổi tiếng GE và chỉ chịu đứng sau tập đoàn kinh doanh xăng dầu khổng lồ lớn thứ 2 thế giới là Exxon-Mobil.

Theo bảng xếp hạng tạp chí danh tiếng Fortune vừa công bố, tập đoàn bán lẻ Wal-Mart lần thứ tư liên tiếp đứng đầu danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới. Wal-Mart ở vị trị số một với doanh số vượt trội 288 tỷ đôla, trong đó lợi nhuận đạt 10,2 tỷ đôla. Suốt từ năm 2002 đến nay, Wal-Mart luôn đứng đầu danh sách Fortune 500 và được xem là “công ty được ngưỡng mộ nhất tại Mỹ”.

Trong danh sách 25 nhà kinh doanh có khả năng làm thay đổi thế giới do hãng CNN và tạp chí Fortune bình chọn và công bố hồi đầu tháng 4 năm 2005, người sáng lập Wal-Mart Sam Walton được xếp thứ 2, chỉ sau Bill Gates, tỷ phú giàu nhất thế giới và là chủ tập đoàn Microsoft.

Wal-Mart có doanh thu lớn nhất trong số các công ty bán lẻ trên thế giới, vượt xa công ty đứng thứ nhì là Carrefour. Doanh thu của công ty bán lẻ Pháp này chỉ gần bằng một nửa của Wal-Mart. Hệ thống Wal-Mart gồm hơn 4.688 cửa hàng khắp thế giới, với hơn hai phần ba ở tại nước Mỹ.

Ra đời năm 1962 thì đến năm 1979, Wal-Mart lần đầu đạt doanh thu một tỷ đô la một năm. Đến năm 1993, doanh thu đã đạt được con số một tỷ đôla mỗi tuần. Năm 2001, doanh thu mỗi ngày của Wal-Mart đã gần bằng con số ấy. So với thời điểm 1992, Wal-Mart nay lớn hơn gấp năm lần trước đây, tuyển dụng một lượng lao động gấp ba lần hãng General Motors. Chỉ riêng một mặt hàng như bột giặt, mỗi năm Wal-Mart bán được một lượng trị giá 1,4 tỷ đôla.

Nếu xem Wal-Mart như một quốc gia thì đây là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Trung Quốc, vượt qua cả Nga và Anh và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Trung Quốc (sau Đức). Với giá cả hết sức chặt chẽ và yêu cầu cao đối với nhà phân phối, Wal-Mart đã làm thay đổi phương thức làm ăn kinh doanh của Trung Quốc.

Nhiều chuyên gia kinh tế dự báo rằng với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, trong một thập kỷ nữa, doanh số hằng năm của Wal-Mart có thể vượt 1.000 tỷ đôla. Những số liệu này chỉ một quốc gia mạnh mới có thể có được. Năm 1997, Wal-Mart trở thành tập đoàn thuê nhiều lao động nhất ở Mỹ với gần 570.000 người. Cũng trong năm này, doanh số hàng năm của hãng vượt 100 tỷ đôla. Năm 1999, Wal-Mart trở thành tập đoàn lớn nhất thế giới về nhân sự với 1.140.000 người.

Nếu như giai đoạn giữa thế kỷ 20 được xem là kỷ nguyên của hãng sản xuất xe hơi General Motors và giai đoạn cuối thế kỷ 20 là của hãng phần mềm Microsoft thì đầu thế kỷ 21 này rõ ràng đã là của Wal-Mart. Tập đoàn này hiện có 4.688 siêu thị trên toàn thế giới, trong đó 80% là ở Mỹ. Bình quân mỗi ngày có khoảng 20 triệu người đến các siêu thị của Wal-Mart. Tại Mỹ, hơn 80% hộ gia đình mỗi năm mua ít nhất vài sản phẩm từ các cửa hàng của hãng.

Khi đứng ra thành lập công ty kinh doanh siêu thị bán hàng giảm giá tối đa Wal-Mart vào năm 1962 tại Bentonville, bang Arkansas, chắc hẳn Sam Walton không ngờ có ngày công ty của ông lại đứng trên cả những đại gia trong các ngành công nghiệp dầu khí (Exxon-Mobil), xe hơi (General Motors, Ford Motors), máy bay (Boeing… và trở thành công ty số một của nền công nghiệp Mỹ và thế giới.

Wal-Mart là công ty dịch vụ đầu tiên leo đến vị trí hạng nhất trên danh sách của Fortune (bắt đầu công bố từ năm 1955). Ngoài ra, Wal-Mart cũng hiện diện trong danh sách Fortune 100 công ty được giới lao động Mỹ ưa thích xin vào làm việc nhất.

Một trong những tính cách đặc biệt của ông là luôn khuyến khích tinh thần của nhân viên. Như năm 1975, nhân một chuyến công tác tới Hàn Quốc, S.Walton đã cao hứng sáng tác bài hát riêng cho Wal-Mart có tên là “Wal-Mart Cheer” để cổ động tinh thần làm việc của nhân viên cũng như nâng cao tính đoàn kết trong nội bộ. Bài ca vẫn được lưu truyền rộng rãi trong Wal-Mart cho tới ngày nay. Tính đến năm 2005, Wal-Mart có tất cả 1.300.000 công nhân viên trên toàn thế giới, trở thành tập đoàn tư nhân đông nhân viên nhất thế giới.

Công thức làm ăn của ông đã được truyền tụng từ đời này sang đời khác là cắt giảm chi phí + giảm giá + dịch vụ tối ưu + khai thác hiệu quả công nghệ thông tin + đảm bảo cuộc sống nhân viên.

Toàn bộ bí kíp kinh doanh của gã tỷ phú bán lẻ Sam Walton được gói gọn trong cuốn "Cuộc đời kinh doanh tại Mỹ", do Công ty Alpha Books phát hành. Với Sam Walton “Bí quyết thành công của một người bán lẻ hàng hóa là phải mang lại cho khách hàng những điều mà họ muốn. Nhưng như vậy chưa đủ, để trở thành xuất sắc, khách hàng phải được hưởng nhiều hơn cái họ chờ đợi. Hãy luôn đặt mình vào vị trí của khách hàng để xem họ muốn gì: Hàng hóa chất lượng tốt và phong phú? Giá thành thấp nhất? Độ tin cậy tối đa? Dịch vụ tận tình? Giờ giấc thuận tiện? Nơi đỗ xe miễn phí? Tất nhiên, khi họ thấy yên tâm, họ sẽ tiếp tục tới cửa hàng. Còn ngược lại, cũng sẽ dễ hiểu nếu chúng ta không bao giờ gặp lại những khách hàng không được thỏa mãn nhu cầu”.

Dưới bảng hiệu Wal-Mart, có hai dòng chữ sau này trở thành phương cách làm việc nổi tiếng: “Chúng tôi bán với giá thấp hơn” và “Đảm bảo thỏa mãn khách hàng”. Trong cuộc đời kinh doanh sóng gió của mình, Sam vẫn giữ vững phương châm ấy.

27.3.18

Cuộc đời ông vua thép - andrew carnegie


Andrew Carnegie được mệnh danh là vua thép của nước Mỹ. Xuất thân bần hàn, nhưng nhờ nỗ lực vượt khó, ông đã trở nên giàu có. Ông còn được biết đến như người giúp tạo ra nhiều triệu phú USD nhất.

Không chỉ nổi tiếng về độ giàu có, Carnegie còn được biết đến với tư cách là một tỷ phú giàu lòng bác ái. Ông từng đóng góp tới 90% tài sản cá nhân tương đương với gần 350,7 triệu USD làm từ thiện.

Năm 2007, ông từng được tạp chí Fortune bình chọn là người giàu thứ 6 trong lịch sử Mỹ. Andrew Carnegie chào đời trong một ngôi nhà nhỏ ở Dunfermline, Scotland vào ngày 25/11/1835.

Nhiều thế hệ nhà Carnegie nổi tiếng với nghề dệt vải bằng khung cửi, nhưng cuộc cách mạng công nghiệp đã khiến việc kinh doanh của họ bị đổ vỡ. Gia đình Andrew Carnegie trở nên nghèo khó tới mức hàng ngày họ phải đi ngủ sớm để “quên đi cái đói khủng khiếp đang hành hạ”.

Năm 1848, gia đình ông rời quê hương sang Mỹ – miền đất hứa của rất nhiều người lao động nghèo châu âu thời ấy. Và khi thấy người cha phải đi xin xỏ việc làm, Carnegie đã thấy trong tim mình một sự thôi thúc.

Năm 12 tuổi, gia đình Carnegie đã chuyển tới thành phố Pittsburgh, nơi hai người dì của ông đang sinh sống. Cả nhà họ phải ngủ chung với nhau trong một căn phòng. Lên 13 tuổi, ông bắt đầu làm việc cho một nhà máy dệt. Công việc của ông là vận hành một động cơ hơi nước nhỏ và đốt nóng một cái nồi hơi trong hầm chứa của nhà máy sản xuất cuộn chỉ. Và đêm nào, ông cũng gặp ác mộng nồi hơi của nhà máy bị phát nổ.


Nhà máy dệt nơi Carnegie làm việc
Năm 1849, ông chuyển sang làm chân giao điện tín. Chính công việc này giúp ông biết và ghi nhớ được tên của hầu như tất cả doanh nghiệp và những nhân vật quan trọng trong vùng. Năm 17 tuổi, Carnegie vào làm ở hãng đường sắt Pennsylvania với vai trò trợ lý và là nhân viên điện báo cho Thomas Scott, một trong các quan chức hàng đầu của ngành đường sắt.

Công việc này giúp ông tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về công nghiệp đường sắt và kinh doanh nói chung. Lương của ông khi đó là 35 USD/tháng. 3 năm sau, Carnegie được thăng chức làm người giám sát. Khi làm việc ở đây, Carnegie cũng bắt đầu đầu tư.

Khoản đầu tư đầu tiên của ông là số cổ phiếu trị giá đến 600 USD của một công ty đường sắt. Chỉ ít lâu sau, ông đã bán lại số cổ phiếu này và thu được hàng chục nghìn USD. Bên cạnh ngành đường sắt, ông cũng đầu tư vào công nghiệp khai thác dầu mỏ và thu được nhiều khoản hời lớn.

Năm 1865, ông rời công ty đường sắt và chuyển tới New York để theo đuổi những sở thích kinh doanh riêng. Tại đây, ông cùng mẹ đã thuê một phòng ở khách sạn St Nicholas. Trong 10 năm kế tiếp, Carnegie dành hầu hết thời gian cho ngành thép. Công việc của ông tại Công ty Thép Carnegie đã mở ra thời kỳ cách mạng hóa hoạt động sản xuất thép ở Hoa Kỳ.
Khách sạn ST Nicholas 
Carnegie xây dựng các nhà máy trên khắp đất nước, dùng các phương pháp và công nghệ giúp sản xuất thép dễ, nhanh và năng suất cao hơn. Năm 1897, Carnegie trở lại Scotland và bỏ tiền mua tòa lâu đài Skibo. Ông gọi khu bất động sản này “thiên đường trên trái đất”.

Năm 1900, Công ty Thép Carnegie đã sản xuất ra lượng thép nhiều hơn cả nước Anh. Năm 1901, Carnegie đã thay đổi cuộc đời mình khi bán công ty cho United States Steel Corporation, thuộc sở hữu của huyền thoại tài chính J. P. Morgan.

Thương vụ này mang về cho ông 480 triệu USD (tương đương 309,2 tỷ USD ở thời điểm hiện nay). Ở tuổi 65, ông quyết định dùng hết thời gian còn lại để giúp đỡ người khác. Ông bắt đầu xây dựng thư viện, trường học và đóng góp từ thiện. Ông đã đóng góp khoảng 5 triệu USD cho Thư viện Công cộng New York, giúp thư viện này mở thêm một số chi nhánh năm 1901.

Công ty thép của Carnegie 
Andrew Carnegie từng nói với nhiều người, những tri thức và hiểu biết của ông đều do tự học và tự đọc qua sách mà có cả. Ông đã tài trợ cho gần 3.000 thư viện, công viên, giáo dục, nghệ thuật… Ứớc tính ông đã đóng góp 60 triệu USD cho các thư viện, 78 triệu USD cho giáo dục, tặng các giáo đường 7.000 đàn piano… Tỷ phú Carnegie đã qua đời ngày 11/8/1919.

Andrew Carnegie Với Giấc Mơ Xây Dựng Nước Mỹ Hiện Đại

Ở tuổi 24, Carnegie đã đảm nhận vị trí giám đốc công ty đường sắt Pennsylvania. Làm việc cùng với Scott để nhìn xa trông rộng mở rộng đường sắt về phía Tây. Cây cầu mà Scott vạch ra sẽ là cây cầu lớn nhất nước Mỹ. Vấn đề là, Carnegie không biết làm sao thế nào để xây nó.

Cây cầu bắc qua sông Mississippi sẽ nối phía đông với phía tây, điều chưa từng có trước đây. Vượt qua sông Mississippi, đó là chìa khóa cho thành công đối với bất kỳ công ty đường sắt nào. Một khi đã vượt qua được sông Mississippi bạn có thể tiến về phía tây. Carnegie biết phải mạo hiểm thì mới thành công lớn. Ông đầu tư mọi thứ ông có vào cây cầu. Andrew Carnegie chuẩn bị cẩn thận từng bước một. Ông tin mình có thể làm được.
Cây cầu bắc qua sông Mississippi
  
Thép là kim loại cứng nhất từng được sản xuất vào thời điểm đó, được tạo thành bởi hỗn hợp sắt và các bon ở nhiệt độ hơn 2000 độ. Vấn đề là nó quá đắt đỏ và rất khó để sản xuất hàng loạt. Ở thời của Carnegie sắt rất hiếm, nó chỉ được dùng để sản xuất các đồ vật nhỏ như nĩa, dao, và đồ trang trí. Cho tới tận lúc đó chưa ai từng dùng sắt để xây dựng các công trình lớn.

Ở tuổi 33, Andrew Carnegie đã sẵn sàng đương đầu với những điều không thể. Xây dựng cây cầu lớn đầu tiên bắc qua sông Mississippi là điều tưởng như không thể đầu tiên để kết nối nước Mỹ. Nhưng quyết định sử dụng thép đã cho Carnegie thấy sự tốn kém. Sau 2 năm lập kế hoạch Carnegie mới bắt đầu xây dựng. Dù tính toán rất chi tiết nhưng chi phí xây dựng liên tục tăng.

Ngân quỹ không còn đồng nào, Carnegie buộc phải tạm dừng xây dựng. Giấc mơ đẹp của ông dần trở thành ác mộng. Nhưng ông sẽ không bỏ cuộc mà không chiến đấu. Carnegie đang kiên định xây dựng cây cầu của mình bằng thép, thứ kim loại chưa được kiểm chứng. Với một mức giá khổng lồ. Công trình xây dựng vượt dự toán nhiều lần khiến quỹ xây dựng của Carnegie nhanh chóng trống rỗng. Đó là một áp lực không nhỏ mà Canegie phải giải quyết.

Nỗ lực của Carnegie cuối cùng đã có kết quả: tài chính được đảm bảo. Và sau 4 năm, cây cầu được hoàn thành. Sau thành công đó, Carnegie nhận thêm nhiều đơn hàng cho thép của ông, hơn nhiều lần khả năng ông có thể cung cấp. Và khách hàng lớn nhất của ông là ngành công nghiệp mà ông nắm rõ nhất. Đường sắt đang tìm cách thay thế các cây cầu cũng như đường ray của họ bằng thép. Nhưng Carnegie không thể sản xuất đủ thứ kim loại mới này cho các đơn hàng.

Ông cần phải tăng cường khả năng sản xuất của mình. Và để làm điều đó, ông cần huy động thêm vốn bổ sung. Vậy nên ông quay lại người thầy cũ của mình, Tom Scott. Với sự giúp đỡ của Scott, Carnegie đã có số vốn hơn 21 triệu đô-la theo tỉ giá hiện nay. Với số tiền đó, ông bắt đầu xây dựng nhà máy thép đầu tiên của mình. Ông nhìn thấy tương lai và ông sẵn sàng đầu tư vào nơi mà những nhà đầu tư Mỹ khác đang sẵn sàng đầu tư: xây dựng các nhà máy khổng lồ.

Với diện tích hơn 4 ngàn (4 mươi ngàn) mét vuông tại ngoại ô Pittsburgh, nhà máy thép Carnegie là nhà máy lớn nhất quốc gia. Có khả năng sản xuất 225 tấn thép một ngày. Với nhà máy mới, Carnegie có thể cung cấp đủ số thép mà quốc gia cần. Và thép giúp ông có một gia tài.

Theo Rockefeller, nếu biết cách xây dựng các mối quan hệ, bạn đã đặt một chân vào ngưỡng cửa thành đạt. Đó là một bài học quan trọng mà Andrew Carnegie đã sớm nắm bắt được ngay từ khi còn nhỏ. Vì gia cảnh khó khăn nên Andrew Carnegie không được học đến nơi đến chốn. Ông chỉ ngồi trên ghế nhà trường được bốn năm, và bắt đầu kiếm tiền từ khi lên bảy.

Trong khi phải kiếm tiền, Andrew Carnegie vẫn luôn dành thời gian cho việc tự học. Ông rất thích đọc sách và chính điều này là khởi nguồn cho tài đối nhân xử thế của ông.

Phần lớn thành công của Carnegie đến từ khả năng vượt qua những công việc khó khăn và cống hiến toàn bộ năng lượng cho công việc của mình. Trong kinh doanh, điều đó có nghĩa là bạn phải đảm bảo rằng những sản phẩm hay dịch vụ bạn làm ra đều tuyệt vời, khách hàng hài lòng và nhân viên vui vẻ phục vụ hiệu quả.

Việc này sẽ giúp doanh nghiệp đối phó với sự cạnh tranh cũng như giúp bạn mở rộng quy mô và khai thác các cơ hội. Khi bạn tự hào về công việc của mình, bạn sẽ càng làm việc hiệu quả hơn.

Cũng như những gương thành công to lớn khác, Carnegie trước đây là một sinh viên học về bản tính con người. Biết rằng chuyển năng lượng một cách hiệu quả vào lực lượng lao động sẽ mang lại thành công. Cho nên, ông luôn tạo ra những mối quan hệ tốt với các nhân viên của mình và thường thưởng cho nhân viên thứ mà họ muốn trong chừng mực hợp lý.

Carnegie đã giúp nhiều nhân viên của ông trở nên giàu có. Ví dụ điển hình là ông trả cho giám đốc nhà máy Charles Schwab một triệu đô la một năm. Số tiền lớn này không phải trả cho chuyên môn kỹ thuật của Charles mà cho khả năng động viên, thúc đẩy nhân viên tuyệt vời của Charles Schwab.

Khi còn là đứa trẻ nghèo ở nông thôn Scotland, Carnegie bắt được một con thỏ cái. Không lâu sau, cô thỏ này sinh được một đàn con nhưng Carnegie không tìm được thức ăn cho chúng. Ông nảy ra một kế: nhờ những đứa trẻ hàng xóm đi góp nhặt rau củ cho thỏ. Bọn trẻ vô cùng sẵn lòng làm chuyện này khi Carnegie đề xuất: “Ai giúp tớ thì tớ sẽ dùng tên người ấy gọi những con thỏ con”.

Khi bắt đầu bước vào thương trường, ông lại dùng thuật đó. Ông lấy tên hội trưởng một công ty xe lửa để đặt tên cho một xưởng lớn sản xuất thép của mình. Nhờ vậy mà Carnegie sinh lời rất nhanh khi công ty xe lửa đó trở thành “khách hàng thân thiết” mua đường ray xe lửa của Carnegie.

Cái tài nhớ được và kính trọng tên bạn bè, đối tác, nhân viên… là một trong những bí quyết làm cho ông nổi danh. Ông từng khẳng định mình có thể nhớ được tên hàng trăm nhân công và khoe rằng ngày nào ông còn đích thân chỉ huy xí nghiệp thì ngày đó công ty không hề có cuộc đình công nào cả.


Từ một kẻ nghèo không một xu dính túi, Andrew Carnegie trở thành một tỉ phú và tạo ra rất nhiều triệu phú khác trong ngành công nghiệp của mình. Ông thừa nhận mình không giỏi chuyên môn nhưng có nhiều tài chinh phục lòng nhân. Những kinh nghiệm của ông đã trở thành những bài học kinh điển cho các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới./.