19.6.18

Báo cáo thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03.6.2013 về ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng cường quản lý bảo vệ...

BÁO CÁO
Tình hình triển khai và kết quả thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW
ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Bắc Yên
 

Thực hiện Công văn số 1269/STNMT-KTTV&BĐKH ngày 05/6/2018 về việc đôn đốc xây dựng Dự thảo báo cáo của Ban Thường vụ tỉnh ủy sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW. Uỷ ban nhân dân Bắc Yên báo cáo tình hình triển khai và kết quả thực hiện Nghị quyết như sau:
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
1.1. Việc tuyên truyền, quán triưệt, xây dựng và ban hành chương trình hành động, kế hoạch tổ chức thực hiện  Nghị quyết
Sau khi được tiếp thu, học tập Nghị quyết số 24 -NQ/TW ngày 03.6.2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên môi trường. Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo tuyên truyền, phổ biến, quán triệt tới các tổ chức cá nhân, cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân, đồng thời chỉ đạo các cấp các ngành, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn xây dựng và ban hành chương trình hành động, kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao thuộc lĩnh vực chuyên môn của ngành. (tải về)

6.4.18

Báo cáo đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất đai và tác động của chính sách

Năm 2017 là năm thứ tư thực hiện Luật Đất đai năm 2013, UBND huyện xác định lĩnh vực đất đai là lĩnh vực nhạy cảm, tranh chấp đất đai xảy ra thường xuyên và phức tạp. UBND huyện đã chỉ đạo các phòng chức năng, UBND các xã, thị trấn hàng năm xây dựng kế hoạch tổ chức tuyên truyền Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai đến mọi tầng lớp nhân dân trên toàn huyện

- Chỉ đạo Đài Truyền thanh Truyền hình huyện, phát thanh xã dành thời lượng phát thanh, truyền hình để tuyên truyền Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai một tháng 2 lần. (đọc tiếp)


28.3.18

David Abney: Đi lên từ cấp thấp nhất

Cuộc sống của 3 người đẹp Việt kín tiếng lấy chồng Ấn Độ giờ ra sao?

Sam Walton -ong vua ban le o My


Năm 2001, Kmart với hệ thống hàng chục nghìn cửa hàng bán lẻ đã tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-Mart trụ lại. Sở dĩ Wal-Mart có được sự phát triển như ngày hôm nay là nhờ tập đoàn này được chèo chống bởi một nhà kinh doanh tài ba - Sam Walton.

Năm 1962, Sam Walton chỉ là một công nhân làm thuê cho một tiệm giặt là tại thị trấn Bentonville bang Arkansas nước Mỹ. Hằng ngày, người thanh niên 28 tuổi này có nhiệm vụ cùng 3 nhân viên khác đem những món đồ đã được là ủi sạch sẽ trao tận tay cho khách hàng.

Khi đó thống trị hệ thống cửa hàng bán lẻ tại Arkansas và các bang lân cận là hai tập đoàn bán lẻ khổng lồ Kmart và Sears. Sau nhiều lần đi giao hàng, trực tiếp "va chạm" với đủ các loại khách hàng, Sam Walton đã phát hiện Kmart và Sears không hề xuất hiện ở các thị trấn nhỏ bé hẻo lánh như thị trấn Benton quê mình.

Với phản xạ kinh doanh nhạy bén, Sam Walton lập tức dốc toàn bộ số tiền 150 đôla thuê 8 công nhân và thành lập một cửa hàng bán lẻ lấy tên là Wal-Mart ngay tại thị trấn Bentonville quê ông.

Thời gian đầu tiên do vốn liếng ít ỏi, kinh nghiệm thiếu, cửa hàng của Sam chủ yếu kinh doanh buôn sỉ bán lẻ theo phương châm lấy công làm lãi, buôn bán những nhu yếu phẩm cần thiết nhất. Sam Walton đã thu hút số lượng lớn khách hàng trong thị trấn bằng tác phong phục vụ nhiệt tình chu đáo, chất lượng hàng bảo đảm, giá cả phải chăng. Cho tới năm 1965, Wal-Mart đã trở thành một trong những cửa hàng bán lẻ thu hút nhiều khách hàng tại thị trấn Benton.

Mặc dù có bước khởi đầu khá thuận lợi nhưng là con người xuất thân từ nông thôn, Walton rất tiết kiệm trong chi phí. Thậm chí khi trở thành một trong số những người giầu nhất nước Mỹ, Sam vẫn là một con người bình dị và khiêm tốn.

Dưới tài lãnh đạo của Sam Walton, Wal-Mart đã phát triển rất nhanh chóng và trở thành đối thủ cạnh tranh ngang ngửa với đối thủ Kmart vào đầu thập niên 1970. Hiện nay, hệ thống cửa hàng siêu thị bán lẻ thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Wal-Mart đã lên tới hàng chục nghìn chiếc nằm rải rác khắp Bắc Mỹ, châu Âu và tích cực vươn sang châu Á. Quy mô khổng lồ hiện nay của Wal-Mart đã được giới kinh doanh Mỹ thừa nhận. Theo thống kê của Hiệp hội thương mại Mỹ, doanh số bán hàng của Wal-Mart đạt 216 tỷ đôla một năm, vượt qua doanh số bán hàng của hãng điện tử gia dụng nổi tiếng GE và chỉ chịu đứng sau tập đoàn kinh doanh xăng dầu khổng lồ lớn thứ 2 thế giới là Exxon-Mobil.

Theo bảng xếp hạng tạp chí danh tiếng Fortune vừa công bố, tập đoàn bán lẻ Wal-Mart lần thứ tư liên tiếp đứng đầu danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới. Wal-Mart ở vị trị số một với doanh số vượt trội 288 tỷ đôla, trong đó lợi nhuận đạt 10,2 tỷ đôla. Suốt từ năm 2002 đến nay, Wal-Mart luôn đứng đầu danh sách Fortune 500 và được xem là “công ty được ngưỡng mộ nhất tại Mỹ”.

Trong danh sách 25 nhà kinh doanh có khả năng làm thay đổi thế giới do hãng CNN và tạp chí Fortune bình chọn và công bố hồi đầu tháng 4 năm 2005, người sáng lập Wal-Mart Sam Walton được xếp thứ 2, chỉ sau Bill Gates, tỷ phú giàu nhất thế giới và là chủ tập đoàn Microsoft.

Wal-Mart có doanh thu lớn nhất trong số các công ty bán lẻ trên thế giới, vượt xa công ty đứng thứ nhì là Carrefour. Doanh thu của công ty bán lẻ Pháp này chỉ gần bằng một nửa của Wal-Mart. Hệ thống Wal-Mart gồm hơn 4.688 cửa hàng khắp thế giới, với hơn hai phần ba ở tại nước Mỹ.

Ra đời năm 1962 thì đến năm 1979, Wal-Mart lần đầu đạt doanh thu một tỷ đô la một năm. Đến năm 1993, doanh thu đã đạt được con số một tỷ đôla mỗi tuần. Năm 2001, doanh thu mỗi ngày của Wal-Mart đã gần bằng con số ấy. So với thời điểm 1992, Wal-Mart nay lớn hơn gấp năm lần trước đây, tuyển dụng một lượng lao động gấp ba lần hãng General Motors. Chỉ riêng một mặt hàng như bột giặt, mỗi năm Wal-Mart bán được một lượng trị giá 1,4 tỷ đôla.

Nếu xem Wal-Mart như một quốc gia thì đây là đối tác thương mại lớn thứ 8 của Trung Quốc, vượt qua cả Nga và Anh và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Trung Quốc (sau Đức). Với giá cả hết sức chặt chẽ và yêu cầu cao đối với nhà phân phối, Wal-Mart đã làm thay đổi phương thức làm ăn kinh doanh của Trung Quốc.

Nhiều chuyên gia kinh tế dự báo rằng với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, trong một thập kỷ nữa, doanh số hằng năm của Wal-Mart có thể vượt 1.000 tỷ đôla. Những số liệu này chỉ một quốc gia mạnh mới có thể có được. Năm 1997, Wal-Mart trở thành tập đoàn thuê nhiều lao động nhất ở Mỹ với gần 570.000 người. Cũng trong năm này, doanh số hàng năm của hãng vượt 100 tỷ đôla. Năm 1999, Wal-Mart trở thành tập đoàn lớn nhất thế giới về nhân sự với 1.140.000 người.

Nếu như giai đoạn giữa thế kỷ 20 được xem là kỷ nguyên của hãng sản xuất xe hơi General Motors và giai đoạn cuối thế kỷ 20 là của hãng phần mềm Microsoft thì đầu thế kỷ 21 này rõ ràng đã là của Wal-Mart. Tập đoàn này hiện có 4.688 siêu thị trên toàn thế giới, trong đó 80% là ở Mỹ. Bình quân mỗi ngày có khoảng 20 triệu người đến các siêu thị của Wal-Mart. Tại Mỹ, hơn 80% hộ gia đình mỗi năm mua ít nhất vài sản phẩm từ các cửa hàng của hãng.

Khi đứng ra thành lập công ty kinh doanh siêu thị bán hàng giảm giá tối đa Wal-Mart vào năm 1962 tại Bentonville, bang Arkansas, chắc hẳn Sam Walton không ngờ có ngày công ty của ông lại đứng trên cả những đại gia trong các ngành công nghiệp dầu khí (Exxon-Mobil), xe hơi (General Motors, Ford Motors), máy bay (Boeing… và trở thành công ty số một của nền công nghiệp Mỹ và thế giới.

Wal-Mart là công ty dịch vụ đầu tiên leo đến vị trí hạng nhất trên danh sách của Fortune (bắt đầu công bố từ năm 1955). Ngoài ra, Wal-Mart cũng hiện diện trong danh sách Fortune 100 công ty được giới lao động Mỹ ưa thích xin vào làm việc nhất.

Một trong những tính cách đặc biệt của ông là luôn khuyến khích tinh thần của nhân viên. Như năm 1975, nhân một chuyến công tác tới Hàn Quốc, S.Walton đã cao hứng sáng tác bài hát riêng cho Wal-Mart có tên là “Wal-Mart Cheer” để cổ động tinh thần làm việc của nhân viên cũng như nâng cao tính đoàn kết trong nội bộ. Bài ca vẫn được lưu truyền rộng rãi trong Wal-Mart cho tới ngày nay. Tính đến năm 2005, Wal-Mart có tất cả 1.300.000 công nhân viên trên toàn thế giới, trở thành tập đoàn tư nhân đông nhân viên nhất thế giới.

Công thức làm ăn của ông đã được truyền tụng từ đời này sang đời khác là cắt giảm chi phí + giảm giá + dịch vụ tối ưu + khai thác hiệu quả công nghệ thông tin + đảm bảo cuộc sống nhân viên.

Toàn bộ bí kíp kinh doanh của gã tỷ phú bán lẻ Sam Walton được gói gọn trong cuốn "Cuộc đời kinh doanh tại Mỹ", do Công ty Alpha Books phát hành. Với Sam Walton “Bí quyết thành công của một người bán lẻ hàng hóa là phải mang lại cho khách hàng những điều mà họ muốn. Nhưng như vậy chưa đủ, để trở thành xuất sắc, khách hàng phải được hưởng nhiều hơn cái họ chờ đợi. Hãy luôn đặt mình vào vị trí của khách hàng để xem họ muốn gì: Hàng hóa chất lượng tốt và phong phú? Giá thành thấp nhất? Độ tin cậy tối đa? Dịch vụ tận tình? Giờ giấc thuận tiện? Nơi đỗ xe miễn phí? Tất nhiên, khi họ thấy yên tâm, họ sẽ tiếp tục tới cửa hàng. Còn ngược lại, cũng sẽ dễ hiểu nếu chúng ta không bao giờ gặp lại những khách hàng không được thỏa mãn nhu cầu”.

Dưới bảng hiệu Wal-Mart, có hai dòng chữ sau này trở thành phương cách làm việc nổi tiếng: “Chúng tôi bán với giá thấp hơn” và “Đảm bảo thỏa mãn khách hàng”. Trong cuộc đời kinh doanh sóng gió của mình, Sam vẫn giữ vững phương châm ấy.

27.3.18

Cuộc đời ông vua thép - andrew carnegie


Andrew Carnegie được mệnh danh là vua thép của nước Mỹ. Xuất thân bần hàn, nhưng nhờ nỗ lực vượt khó, ông đã trở nên giàu có. Ông còn được biết đến như người giúp tạo ra nhiều triệu phú USD nhất.

Không chỉ nổi tiếng về độ giàu có, Carnegie còn được biết đến với tư cách là một tỷ phú giàu lòng bác ái. Ông từng đóng góp tới 90% tài sản cá nhân tương đương với gần 350,7 triệu USD làm từ thiện.

Năm 2007, ông từng được tạp chí Fortune bình chọn là người giàu thứ 6 trong lịch sử Mỹ. Andrew Carnegie chào đời trong một ngôi nhà nhỏ ở Dunfermline, Scotland vào ngày 25/11/1835.

Nhiều thế hệ nhà Carnegie nổi tiếng với nghề dệt vải bằng khung cửi, nhưng cuộc cách mạng công nghiệp đã khiến việc kinh doanh của họ bị đổ vỡ. Gia đình Andrew Carnegie trở nên nghèo khó tới mức hàng ngày họ phải đi ngủ sớm để “quên đi cái đói khủng khiếp đang hành hạ”.

Năm 1848, gia đình ông rời quê hương sang Mỹ – miền đất hứa của rất nhiều người lao động nghèo châu âu thời ấy. Và khi thấy người cha phải đi xin xỏ việc làm, Carnegie đã thấy trong tim mình một sự thôi thúc.

Năm 12 tuổi, gia đình Carnegie đã chuyển tới thành phố Pittsburgh, nơi hai người dì của ông đang sinh sống. Cả nhà họ phải ngủ chung với nhau trong một căn phòng. Lên 13 tuổi, ông bắt đầu làm việc cho một nhà máy dệt. Công việc của ông là vận hành một động cơ hơi nước nhỏ và đốt nóng một cái nồi hơi trong hầm chứa của nhà máy sản xuất cuộn chỉ. Và đêm nào, ông cũng gặp ác mộng nồi hơi của nhà máy bị phát nổ.


Nhà máy dệt nơi Carnegie làm việc
Năm 1849, ông chuyển sang làm chân giao điện tín. Chính công việc này giúp ông biết và ghi nhớ được tên của hầu như tất cả doanh nghiệp và những nhân vật quan trọng trong vùng. Năm 17 tuổi, Carnegie vào làm ở hãng đường sắt Pennsylvania với vai trò trợ lý và là nhân viên điện báo cho Thomas Scott, một trong các quan chức hàng đầu của ngành đường sắt.

Công việc này giúp ông tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về công nghiệp đường sắt và kinh doanh nói chung. Lương của ông khi đó là 35 USD/tháng. 3 năm sau, Carnegie được thăng chức làm người giám sát. Khi làm việc ở đây, Carnegie cũng bắt đầu đầu tư.

Khoản đầu tư đầu tiên của ông là số cổ phiếu trị giá đến 600 USD của một công ty đường sắt. Chỉ ít lâu sau, ông đã bán lại số cổ phiếu này và thu được hàng chục nghìn USD. Bên cạnh ngành đường sắt, ông cũng đầu tư vào công nghiệp khai thác dầu mỏ và thu được nhiều khoản hời lớn.

Năm 1865, ông rời công ty đường sắt và chuyển tới New York để theo đuổi những sở thích kinh doanh riêng. Tại đây, ông cùng mẹ đã thuê một phòng ở khách sạn St Nicholas. Trong 10 năm kế tiếp, Carnegie dành hầu hết thời gian cho ngành thép. Công việc của ông tại Công ty Thép Carnegie đã mở ra thời kỳ cách mạng hóa hoạt động sản xuất thép ở Hoa Kỳ.
Khách sạn ST Nicholas 
Carnegie xây dựng các nhà máy trên khắp đất nước, dùng các phương pháp và công nghệ giúp sản xuất thép dễ, nhanh và năng suất cao hơn. Năm 1897, Carnegie trở lại Scotland và bỏ tiền mua tòa lâu đài Skibo. Ông gọi khu bất động sản này “thiên đường trên trái đất”.

Năm 1900, Công ty Thép Carnegie đã sản xuất ra lượng thép nhiều hơn cả nước Anh. Năm 1901, Carnegie đã thay đổi cuộc đời mình khi bán công ty cho United States Steel Corporation, thuộc sở hữu của huyền thoại tài chính J. P. Morgan.

Thương vụ này mang về cho ông 480 triệu USD (tương đương 309,2 tỷ USD ở thời điểm hiện nay). Ở tuổi 65, ông quyết định dùng hết thời gian còn lại để giúp đỡ người khác. Ông bắt đầu xây dựng thư viện, trường học và đóng góp từ thiện. Ông đã đóng góp khoảng 5 triệu USD cho Thư viện Công cộng New York, giúp thư viện này mở thêm một số chi nhánh năm 1901.

Công ty thép của Carnegie 
Andrew Carnegie từng nói với nhiều người, những tri thức và hiểu biết của ông đều do tự học và tự đọc qua sách mà có cả. Ông đã tài trợ cho gần 3.000 thư viện, công viên, giáo dục, nghệ thuật… Ứớc tính ông đã đóng góp 60 triệu USD cho các thư viện, 78 triệu USD cho giáo dục, tặng các giáo đường 7.000 đàn piano… Tỷ phú Carnegie đã qua đời ngày 11/8/1919.

Andrew Carnegie Với Giấc Mơ Xây Dựng Nước Mỹ Hiện Đại

Ở tuổi 24, Carnegie đã đảm nhận vị trí giám đốc công ty đường sắt Pennsylvania. Làm việc cùng với Scott để nhìn xa trông rộng mở rộng đường sắt về phía Tây. Cây cầu mà Scott vạch ra sẽ là cây cầu lớn nhất nước Mỹ. Vấn đề là, Carnegie không biết làm sao thế nào để xây nó.

Cây cầu bắc qua sông Mississippi sẽ nối phía đông với phía tây, điều chưa từng có trước đây. Vượt qua sông Mississippi, đó là chìa khóa cho thành công đối với bất kỳ công ty đường sắt nào. Một khi đã vượt qua được sông Mississippi bạn có thể tiến về phía tây. Carnegie biết phải mạo hiểm thì mới thành công lớn. Ông đầu tư mọi thứ ông có vào cây cầu. Andrew Carnegie chuẩn bị cẩn thận từng bước một. Ông tin mình có thể làm được.
Cây cầu bắc qua sông Mississippi
  
Thép là kim loại cứng nhất từng được sản xuất vào thời điểm đó, được tạo thành bởi hỗn hợp sắt và các bon ở nhiệt độ hơn 2000 độ. Vấn đề là nó quá đắt đỏ và rất khó để sản xuất hàng loạt. Ở thời của Carnegie sắt rất hiếm, nó chỉ được dùng để sản xuất các đồ vật nhỏ như nĩa, dao, và đồ trang trí. Cho tới tận lúc đó chưa ai từng dùng sắt để xây dựng các công trình lớn.

Ở tuổi 33, Andrew Carnegie đã sẵn sàng đương đầu với những điều không thể. Xây dựng cây cầu lớn đầu tiên bắc qua sông Mississippi là điều tưởng như không thể đầu tiên để kết nối nước Mỹ. Nhưng quyết định sử dụng thép đã cho Carnegie thấy sự tốn kém. Sau 2 năm lập kế hoạch Carnegie mới bắt đầu xây dựng. Dù tính toán rất chi tiết nhưng chi phí xây dựng liên tục tăng.

Ngân quỹ không còn đồng nào, Carnegie buộc phải tạm dừng xây dựng. Giấc mơ đẹp của ông dần trở thành ác mộng. Nhưng ông sẽ không bỏ cuộc mà không chiến đấu. Carnegie đang kiên định xây dựng cây cầu của mình bằng thép, thứ kim loại chưa được kiểm chứng. Với một mức giá khổng lồ. Công trình xây dựng vượt dự toán nhiều lần khiến quỹ xây dựng của Carnegie nhanh chóng trống rỗng. Đó là một áp lực không nhỏ mà Canegie phải giải quyết.

Nỗ lực của Carnegie cuối cùng đã có kết quả: tài chính được đảm bảo. Và sau 4 năm, cây cầu được hoàn thành. Sau thành công đó, Carnegie nhận thêm nhiều đơn hàng cho thép của ông, hơn nhiều lần khả năng ông có thể cung cấp. Và khách hàng lớn nhất của ông là ngành công nghiệp mà ông nắm rõ nhất. Đường sắt đang tìm cách thay thế các cây cầu cũng như đường ray của họ bằng thép. Nhưng Carnegie không thể sản xuất đủ thứ kim loại mới này cho các đơn hàng.

Ông cần phải tăng cường khả năng sản xuất của mình. Và để làm điều đó, ông cần huy động thêm vốn bổ sung. Vậy nên ông quay lại người thầy cũ của mình, Tom Scott. Với sự giúp đỡ của Scott, Carnegie đã có số vốn hơn 21 triệu đô-la theo tỉ giá hiện nay. Với số tiền đó, ông bắt đầu xây dựng nhà máy thép đầu tiên của mình. Ông nhìn thấy tương lai và ông sẵn sàng đầu tư vào nơi mà những nhà đầu tư Mỹ khác đang sẵn sàng đầu tư: xây dựng các nhà máy khổng lồ.

Với diện tích hơn 4 ngàn (4 mươi ngàn) mét vuông tại ngoại ô Pittsburgh, nhà máy thép Carnegie là nhà máy lớn nhất quốc gia. Có khả năng sản xuất 225 tấn thép một ngày. Với nhà máy mới, Carnegie có thể cung cấp đủ số thép mà quốc gia cần. Và thép giúp ông có một gia tài.

Theo Rockefeller, nếu biết cách xây dựng các mối quan hệ, bạn đã đặt một chân vào ngưỡng cửa thành đạt. Đó là một bài học quan trọng mà Andrew Carnegie đã sớm nắm bắt được ngay từ khi còn nhỏ. Vì gia cảnh khó khăn nên Andrew Carnegie không được học đến nơi đến chốn. Ông chỉ ngồi trên ghế nhà trường được bốn năm, và bắt đầu kiếm tiền từ khi lên bảy.

Trong khi phải kiếm tiền, Andrew Carnegie vẫn luôn dành thời gian cho việc tự học. Ông rất thích đọc sách và chính điều này là khởi nguồn cho tài đối nhân xử thế của ông.

Phần lớn thành công của Carnegie đến từ khả năng vượt qua những công việc khó khăn và cống hiến toàn bộ năng lượng cho công việc của mình. Trong kinh doanh, điều đó có nghĩa là bạn phải đảm bảo rằng những sản phẩm hay dịch vụ bạn làm ra đều tuyệt vời, khách hàng hài lòng và nhân viên vui vẻ phục vụ hiệu quả.

Việc này sẽ giúp doanh nghiệp đối phó với sự cạnh tranh cũng như giúp bạn mở rộng quy mô và khai thác các cơ hội. Khi bạn tự hào về công việc của mình, bạn sẽ càng làm việc hiệu quả hơn.

Cũng như những gương thành công to lớn khác, Carnegie trước đây là một sinh viên học về bản tính con người. Biết rằng chuyển năng lượng một cách hiệu quả vào lực lượng lao động sẽ mang lại thành công. Cho nên, ông luôn tạo ra những mối quan hệ tốt với các nhân viên của mình và thường thưởng cho nhân viên thứ mà họ muốn trong chừng mực hợp lý.

Carnegie đã giúp nhiều nhân viên của ông trở nên giàu có. Ví dụ điển hình là ông trả cho giám đốc nhà máy Charles Schwab một triệu đô la một năm. Số tiền lớn này không phải trả cho chuyên môn kỹ thuật của Charles mà cho khả năng động viên, thúc đẩy nhân viên tuyệt vời của Charles Schwab.

Khi còn là đứa trẻ nghèo ở nông thôn Scotland, Carnegie bắt được một con thỏ cái. Không lâu sau, cô thỏ này sinh được một đàn con nhưng Carnegie không tìm được thức ăn cho chúng. Ông nảy ra một kế: nhờ những đứa trẻ hàng xóm đi góp nhặt rau củ cho thỏ. Bọn trẻ vô cùng sẵn lòng làm chuyện này khi Carnegie đề xuất: “Ai giúp tớ thì tớ sẽ dùng tên người ấy gọi những con thỏ con”.

Khi bắt đầu bước vào thương trường, ông lại dùng thuật đó. Ông lấy tên hội trưởng một công ty xe lửa để đặt tên cho một xưởng lớn sản xuất thép của mình. Nhờ vậy mà Carnegie sinh lời rất nhanh khi công ty xe lửa đó trở thành “khách hàng thân thiết” mua đường ray xe lửa của Carnegie.

Cái tài nhớ được và kính trọng tên bạn bè, đối tác, nhân viên… là một trong những bí quyết làm cho ông nổi danh. Ông từng khẳng định mình có thể nhớ được tên hàng trăm nhân công và khoe rằng ngày nào ông còn đích thân chỉ huy xí nghiệp thì ngày đó công ty không hề có cuộc đình công nào cả.


Từ một kẻ nghèo không một xu dính túi, Andrew Carnegie trở thành một tỉ phú và tạo ra rất nhiều triệu phú khác trong ngành công nghiệp của mình. Ông thừa nhận mình không giỏi chuyên môn nhưng có nhiều tài chinh phục lòng nhân. Những kinh nghiệm của ông đã trở thành những bài học kinh điển cho các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới./.

6 câu chuyện của những tỷ phú thành công nhất mọi thời đại

Đây là những câu chuyện có sức hấp dẫn bền bỉ về những con người thành công từ hai bàn tay trắng. Bạn sẽ thấy rằng sự thành công không phải do số phận mà là kết quả của một hành trình nỗ lực, tư duy và thái độ đúng đắn. Xuất phát điểm của bạn ở đâu, khó khăn, bất hạnh hay thất bại cũng không phải là vấn đề quan trọng ngăn cản bước chân bạn.

Dưới đây là 6 câu chuyện tuyệt vời trên khắp thế giới sẽ đốt cháy ngọn lửa đam mê và cảm hứng để bạn đạt được tất cả những gì mình mong muốn.

1. Andrew Carnegie – Vua thép lớn lên trong gia đình thợ dệt

Andrew Carnegie (1835-1919), ông “vua thép” nước Mỹ, sinh ra tại Scotland. Từ một người nghèo không một xu dính túi, ông trở thành một tỉ phú và tạo ra rất nhiều triệu phú khác trong ngành công nghiệp của mình.

AndrewCarnegie sinh ra ở một căn nhà nhỏ tại Dunfermline, Scotland năm 1835. Sau khi phá sản, trở nên nghèo khó, gia đình Carnegie từng phải tạo thói quen đi ngủ sớm để quên đi cơn đói. 13 tuổi, ông bắt đầu làm việc cho một nhà máy dệt ở bộ phận nồi hơi – nơi mà những cơn ác mộng về việc các nồi hơi phát nổ bất kỳ lúc nào luôn ám ảnh Carnegie.

Năm 1873, Carnegie đặt những viên gạch đầu tiên cho ngành kinh doanh thép của mình. Hơn 10 năm sau, Carnegie Steel đã lớn mạnh thành một đế chế nhờ ông chủ của nó đã áp dụng tiến bộ khoa học ngay từ đầu. Trước năm 1990, Carnegie Steel sản xuất hơn nửa số lượng thép của toàn nước Anh.

2. Sam Walton – ông vua bán lẻ ở Mỹ

ông từng là nhân viên vắt sữa bò, phát bá Mệnh danh là “ông vua bán lẻ”, Sam Walton – sáng lập tập đoàn bán lẻ Wal- Mart được lịch sử ghi nhận là một trong những người giàu nhất thế giới trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Sam Walton đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh doanh thời bấy giờ, nhưng ít ai biết rằng, ông khởi nghiệp chỉ với vài đồng xu trong túi.

Ông sinh năm 1918 trong một gia đình nông dân nghèo ở tiểu bang Oklahoma. Vào giai đoạn đại khủng hoảng của nước Mỹ, gia đình Sam cũng như nhiều gia đình khác đều phải chịu ảnh hưởng nặng nề. Từ năm lớp 7 đến khi học tại trường đại học Missouri, với ý chí tự lập, Sam Walton đã làm nhiều công việc như nhân viên giao báo, bảo vệ, phục vụ nhà hàng,… để nuôi sống bản thân, trang trải học phí. Tốt nghiệp đại học, ông làm việc cho J.C Penny, nơi ông học hỏi được những kinh nghiệm đầu tiên về công việc bán lẻ.

Ông đã vay để mua cửa hàng đầu tiên, và nhờ sáng kiến đơn giản trong kinh doanh, ông đã sớm mua cửa hàng thứ hai.. Và cửa hàng Wal-Mart đầu tiên thực sự ra đời vào ngày 02 Tháng Bảy năm 1962 tại Rogers, Arkansas. Vào thời điểm qua đời năm 1992, ông đã sở hữu 1.960 cửa hàng Wal-Mart, 380.000 nhân công và tốc độ bán hàng hàng năm khoảng 50 tỷ USD.

3. Oprah Winfrey – Nữ hoàng truyền thông từng bị lạm dụng tình dục
 

Nổi tiếng là một trong những người nổi tiếng, giàu có và quyền lực nhất Hollywood, nhưng “nữ hoàng truyền thông” Oprah Winfrey cũng là một nhà hoạt động xã hội vì quyền trẻ em mạnh mẽ nhất.

Oprah Winfrey là người Mỹ gốc Phi. Từ bé bà đã có một tuổi thơ đầy bất hạnh, bị bỏ rơi khi mới lọt lòng, bị lạm dụng tình dục khi mới lên 9 trong nhiều năm trời, bị kỳ thị chủng tộc. Nhưng có lẽ cú sốc tinh thần lớn nhất trong cuộc đời Oprah Winfrey chính là cô phải làm mẹ ở tuổi 14 nhưng đứa bé bị chết yểu.

Với phong cách thân thiện và khả năng làm chủ các đề tài lôi cuốn khán giả, chương trình “The Oprah Winfrey Show” của Oprah đã được mở rộng ra khắp nước Mỹ, được xếp hạng cao nhất trong số các chương trình talk show trên truyền hình. Chương trình cũng duy trì vị trí quán quân hơn 20 năm qua, thu hút khoảng 30 triệu khán giả ở Mỹ và một lượng lớn khán giả ở 109 nước trên thế giới.

Tính đến năm 2014, Oprah Winfrey có một giá trị tài sản vượt quá 2,9 tỷ đô la, Nữ hoàng truyền thông Oprah Winfrey (56 tuổi) giành vị trí dẫn đầu top 100 ngôi sao quyền lực thế giới năm 2010 do tạp chí danh tiếng Mỹ Forbes bình chọn.

4. Lý Gia Thành – Người giàu nhất ở châu Á bỏ học năm 15 tuổi

Ông trùm kinh doanh, đầu tư và cũng là nhà từ thiện giàu nhất Châu Á có trong tay khối tài sản trị giá 31.9 tỷ USD (Theo Bloomberg Billionaires Index, tính đến tháng 16,2014).

Lý Gia Thành sinh ra ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 15 tuổi, Sau khi cha mất, ông buộc phải nghỉ học, làm việc ở một công ty nhựa 16 tiếng mỗi ngày. Nhờ chăm chỉ và thật thà, ông được tín nhiệm đưa lên vị trí giám đốc xưởng sản xuất đồ nhựa khi 20 tuổi. Hai năm sau, Lý Gia Thành lập một xưởng sản xuất nhựa cho riêng mình.
Những năm tiếp theo, ông không ngừng mở rộng quy mô để công ty Trường Giang Thực Nghiệp trở thành một trong 10 tập đoàn hùng mạnh nhất Hồng Kông và có sức ảnh hưởng rất lớn trên thị trường chứng khoán thế giới. Cũng trong giai đoạn này, ông đã gây dựng nên Tập đoàn Hòa Ký Hoàng Phố, chuyên đầu tư vào các lĩnh vực tàu biển, bất động sản, năng lượng, xây dựng…

Với khối tài sản trị giá 26,5 tỷ USD, năm 2008, Lý Gia Thành có tên ở vị trí thứ 11 trong bảng xếp hạng “Những người giàu nhất thế giới” của Forbes. Trước đó, năm 2001, ông được Tạp chí Asiaweek bầu chọn là nhân vật quyền lực nhất châu Á.

5. Larry Ellison – trở thành CEO Oracle từ tuổi thơ bất hạnh

Mẹ Ellison sinh ra ông khi còn đang đi học và không thể chăm sóc ông chu đáo. Vì thế, Ellison được một người họ hàng nhận nuôi từ khi còn rất nhỏ. Cha nuôi của ông là một người Nga di cư rất nghèo. Sau khi mẹ nuôi qua đời, Ellison bỏ dở đại học và chuyển đến California, làm hết nghề này đến nghề khác. Ông từng nói mình có tất cả điều kiện bất lợi cần để thành công.
Năm 1977, Ellison thành lập công ty phần mềm Oracle và trở thành tỷ phú với khối tài sản 52,1 tỷ USD. Ông luôn tâm đắc một câu nói của Thành Cát Tư Hãn: “Tôi thành công thôi thì chưa đủ, những người khác còn phải thất bại nữa”.

6. Jan Koum – từ người nhập nghèo khó trở thành một ông trùm Thung lũng Silicon
 
Sau khi Facebook mua nhà cung cấp phần mềm OTT – Whatsapp với giá 16 tỷ USD, Koum trở thành tỷ phú đôla với tài sản 6,8 tỷ USD.
Năm nay 37 tuổi, đồng sáng lập WhatsApp Jan Koum sinh ra ở Ukraine, trong một gia đình nghèo, không có điện lẫn nước nóng. Năm 16 tuổi, gia đình anh chuyển đến Mỹ và tiếp tục trải qua thời kỳ gian khổ, cuộc sống dựa chủ yếu vào tem phiếu thực phẩm dành cho những người không mua nổi mua thức ăn.


Khi đang học đại học, Koum vừa học vừa làm cho Tập đoàn Ernst & Young và sau đó chuyển đến làm cho Yahoo ở vị trí kỹ sư hạ tầng. Sau đó, anh quyết định nghỉ học để tập trung làm toàn thời gian tại Yahoo. Mẹ Koum qua đời vì bệnh ung thư năm 2000, ba năm sau cái chết của người bố. Vào tháng 1 năm 2009, Koum mua một chiếc iPhone và nhận ra rằng kho ứng dụng App Store (lúc này đã thành lập được 7 tháng) có thể mở ra cả một ngành công nghiệp ứng dụng. Vào ngày sinh nhật của mình, 24 tháng 2 năm 2009, ông quyết định thành lập WhatsApp Inc ở California.

8 bước để tạo ra nhiều nguồn thu nhâp



 “Đừng để quan điểm của những người tầm thường làm ảnh hưởng tới bạn. Nếu bạn mơ ước, họ sẽ nghĩ bạn điên rồ. Nếu bạn thành công họ sẽ nghĩ bạn may mắn. Nếu bạn có được của cải, họ sẽ nghĩ bạn tham lam. Đừng để tâm tới họ. Đơn giản là họ chẳng hiểu gì cả”. - Robert G. Allen. Nếu muốn tự do tài chính, bạn phải tạo ra nhiều nguồn thu nhập và dưới đây là 8 bước giúp bạn thực hiện điều đó thành công.

Ở tuổi 25, tôi đã bắt đầu lên kế hoạch cho chiến lược đầu ra nhằm từ bỏ công việc bán hàng để trở thành doanh nhân và theo đuổi niềm đam mê của mình: giúp mọi người tối đa hóa tiềm năng của họ và cải thiện đáng kể các kết quả của họ.
Khi vẫn đang làm công việc bán hàng, tôi đã mở công ty đầu tiên của mình (và là nguồn thu nhập thêm của tôi) và đóng vai trò là người huấn luyện thành công cho doanh nghiệp và cá nhân. Trong chín năm qua, bằng cách sử dụng chính xác công thức dưới đây, tôi đã có thể bổ sung thêm 9 nguồn thu nhập nữa trong đó bao gồm viết sách, diễn thuyết, huấn luyện cá nhân và đội nhóm và tổ chức các sự kiện trực tiếp.

Với bất cứ ai coi trọng sự an toàn tài chính và mong muốn có được sự tự do tài chính, thì việc tạo ra thêm ít nhất một nguồn thu nhập không còn là một điều xa xỉ nữa, mà là sự cần thiết để bảo vệ bạn và gia đình bạn khỏi những lúc thăng trầm không thể tránh khỏi của nền kinh tế và ngành kinh doanh. Vì những rủi ro tài chính đều xuất phát từ việc dựa vào duy nhất một nguồn thu nhập như một công việc hoặc một doanh nghiệp, nên bạn cần cân nhắc tạo thêm ít nhất là một nguồn thu nhập để có được dòng tiền mặt.

Các dòng thu nhập thêm của bạn có thể là chủ động hoặc thụ động hoặc là kết hợp cả hai. Ai đó trả tiền cho bạn để làm việc mà bạn yêu thích thì đó là thu nhập chủ động, còn khi những người khác đem lại thu nhập cho bạn mà bạn không phải làm gì cả thì đó là thu nhập thụ động. Bạn có thể đa dạng hóa các dòng thu nhập trong nhiều ngành khác nhau để tránh cho mình những tổn thất lớn trong những cuộc suy thoái ở một thị trường và cho phép bạn tận hưởng lợi ích từ những thị trường phát đạt khác.
Đây thực sự là một trong những bí quyết khiến những người giàu trở nên giàu có và duy trì được sự giàu có, và không may là nó không được truyền lại cho số đông. Tin tốt là đây không phải là một điều kỳ diệu, và thậm chí cũng không có gì phức tạp. Tạo ra dòng thu nhập tiếp theo là một quá trình theo từng bước đơn giản, và bạn có thể sắp xếp để đem lại thu nhập hằng tháng nhanh hơn mình tưởng.

1. Thiết lập sự an toàn tài chính
Hiện giờ ý tưởng này không chỉ hấp dẫn nữa mà nó là mệnh lệnh: Đừng tập trung thời gian và năng lượng của bạn vào việc tạo dựng nguồn thu nhập thứ hai cho tới khi nguồn thu nhập đầu tiên của bạn đã ổn định. Dù bạn có một công việc hằng ngày hoặc đang sở hữu một doanh nghiệp, hãy tập trung thiết lập và bảo toàn thu nhập hằng tháng đầu tiên có thể hỗ trợ cho các khoản chi của bạn trước khi theo đuổi các bước tiếp theo.

2. Làm rõ giá trị độc đáo của bạn
Mọi người trên trái đất này đều có những tài năng, các năng lực và các trải nghiệm cuộc sống và giá trị đặc biệt để trao đi và để nhận lại những thứ cao hơn. Hãy tìm ra những hiểu biết, kinh nghiệm, năng lực hoặc giải pháp của bạn mà những người khác coi trọng và có thể trả tiền cho nó. Hãy nhớ rằng, có những thứ tưởng như là điều bình thường với bạn nhưng với người khác lại không phải như vậy.

Bạn và tính cách đặc biệt của bạn có thể tạo ra khác biệt cho những giá trị của bạn so với những người khác trên trái đất. Nhiều người sẽ cộng hưởng với bạn (và phong cách của bạn) tốt hơn là những người khác cũng đem lại giá trị tương tự như thế.

Kiến thức là thứ bạn có thể nhanh chóng gia tăng. Như Tony Robbins đã viết trong cuốn Money: Master the Game: "Lý do mọi người thành công là họ có những kiến thức mà những người khác không có. Bạn trả tiền cho luật sư hoặc bác sĩ vì những kiến thức và kỹ năng mà bạn không có”.
Hãy tăng vốn hiểu biết của bạn trong một lĩnh vực cụ thể và bạn sẽ tăng giá trị mà mọi người sẽ trả cho bạn để dạy họ những gì bạn biết hoặc áp dụng kiến thức của bạn vào hoàn cảnh của họ.

3. Xác định thị trường của bạn
Hãy xác định xem ai là người bạn có thể phục vụ tốt nhất. Với  những giá trị mà bạn có thể bổ sung cho những người khác hoặc những vấn đề mà bạn có thể giúp mọi người giải quyết thì ai sẽ trả tiền để có những giá trị hoặc giải pháp mà bạn cung cấp?

4. Xây dựng một cộng đồng
Bước ngoặt trong cuộc sống tài chính của tôi xảy ra khi tôi nghe tác giả kiêm triệu phú tự thân Dan Kennedy nói rằng: "Tài sản giá trị nhất mà bạn có là danh sách email, vậy hãy tập trung phát triển nó”.
Tôi không thích suy nghĩ rằng cộng đồng email của tôi chỉ là danh sách tên mà là một nhóm các cá nhân, mỗi người đều có các hi vọng và ước mơ của họ.
Dưới đây là cách bạn có thể xây dựng cộng đồng của mình:

 Mua một chương trình tạo email-marketing ( ví dụ như Aweber, Infusionsoft).
 Mua một chương trình để tạo ra trang opt-in (đây là một hộp thông báo yêu cầu điền thông tin như Tên & Email để đăng ký nhận tin tức mới cập nhật từ Blog qua email hoặc cung cấp thông tin cá nhân để nhận quà tặng khuyến mại…-Lời người dịch) (ví dụ như LeadPages.com, Kajabi).
Tạo ra một thứ mang lại giá trị gia tăng như một bản dự báo miễn phí, một ebook, một đoạn băng tiếng hoặc băng hình đào tạo để mọi người vui vẻ cung cấp địa chỉ email nhằm đổi lấy giá trị mà bạn cung cấp.
5. Hỏi cộng đồng của bạn về các mong muốn của họ
Bạn có thể phỏng đoán hoặc giả thiết về những điều mọi người mong ước hoặc muốn, đầu tư thời gian quý giá vào việc tạo ra nó và hi vọng rằng những phỏng đoán của mình đúng. Nhưng hãy nhớ rằng: Hi vọng hiếm khi là một chiến lược hay nhất.
Hoặc bạn có thể gửi một email tới các thành viên trong cộng đồng của bạn có gắn link tới một bản khảo sát (sử dụng dịch vụ miễn phí như SurveyMonkey), để hỏi xem họ muốn hoặc cần giúp trong lĩnh vực mà bạn đã xác định là có thể đem lại giá trị. Hãy đặt ra những câu hỏi mở để giúp bạn kích não hoặc đưa ra nhiều lựa chọn nếu bạn đã nghĩ đến những thứ bạn có thể cung cấp.

6. Tạo ra một giải pháp 
Sau khi các thành viên cộng đồng của bạn đã cho bạn biết những thứ họ cần, thì bạn đã có cơ hội vàng để làm việc và biến nó thành hiện thực. Đây có thể là một sản phẩm số hoặc sản phẩm thực (một cuốn sách, một đoạn băng hình, một chương trình hoặc phần mềm đào tạo) hoặc một dịch vụ (dắt chó đi dạo, trông trẻ, huấn luyện, tư vấn, thuyết trình hoặc đào tạo).

7. Lên kế hoạch cho việc ra mắt
Hãy nghĩ đến lúc Apple ra mắt các sản phẩm của họ. Công ty này không chỉ quẳng sản phẩm lên kệ hoặc trang web của họ mà họ đã biến nó thành một sự kiện. Apple đã tạo ra sự mong đợi từ nhiều tháng trước đó và sự kỳ vọng đã nhiều đến nỗi mọi người đều sẵn lòng dựng lều trước các cửa hàng hàng tuần để được xếp đầu danh sách mua hàng.
Bạn hãy làm như họ và tham khảo cách làm trong cuốn Launch của Jeff Walker.

8. Tìm một người hướng dẫn
Cách tốt nhất để rút ngắn thời gian học của bạn và đạt được kết quả cụ thể là tìm những người đã đạt được những điều bạn muốn đạt được và làm theo họ. Thay vì cố gắng tự mình tìm hiểu, hãy tìm ai đã từng đạt được điều bạn muốn, xem xét cách làm của họ, bắt chước họ và biến nó thành của bạn.
Khi tìm kiếm một người hướng dẫn trực tiếp, bạn có thể thuê một huấn luyện viên, đọc sách hoặc các bài báo của một chuyện gia hoặc nghiên cứu trên web. Sau khi cân nhắc, bạn có thể quyết định tiến hành bước đầu tiên.

Hãy lên kế hoạch để bắt đầu thực hiện lần lượt 8 bước trên trong vài tháng và bạn có thể tận hưởng những lợi ích, sự an toàn và tự do tài chính tới từ việc có nhiều nguồn thu nhập.


16.1.18

Kế hoạch tăng trưởng xanh ngành Tài nguyên và Môi trường huyện Bắc Yên

                                                 KẾ HOẠCH
Hành động tăng trưởng xanh
lĩnh vực ngành Tài nguyên và Môi trường huyện bắc yên đến năm 2020

 Căn cứ Kế hoạch số 207/KH-UBND ngày 21/12/2017 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La về Hành động tăng trưởng xanh tỉnh Sơn La đến năm 2020;
 




Thực hiện Công văn số 02/UBND ngày 02/01/2018 của Ủy ban nhân huyện Bắc Yên về việc xây dựng Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh đến năm 2020.
Phòng Tài nguyên và Môi trường xây dựng Kế hoạch hành động cụ thể như sau:
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU.
1. Thực hiện có hiệu quả mục tiêu Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, góp phần thực hiện tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng, xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên với giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường;
2. Góp phần vào mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính, ứng phó hiệu quả hơn với biến đổi khí hậu;
3. Góp phần ngăn chặn, đẩy lùi xu hướng gia tăng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học; cải thiện chất lượng môi trường sống, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường góp phần hình thành các điều kiện cơ bản cho nền kinh tế xanh, ít chất thải, các bon thấp (xem tiếp).

14.1.18

Thẻ BHYT: Những điều cần biết

Những ký hiệu trên thẻ BHYT
Hai ký tự đầu (ô thứ nhất): Được ký hiệu bằng chữ, là mã đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm:
CH: Người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức xã hội khác; (xem tiếp)